Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Xuân Diệu SVIP
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Hai anh em Hoài Thanh, Hoài Chân sinh ra ở xã Nghi Trung, Huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh trong một gia đình nhà nho nghèo có tham gia phong trào chống Pháp của Phan Bội Châu.
- Hoài Thanh (1909 - 1982), tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, là nhà phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
- Hoài Chân (1914 - ?), em ruột Hoài Thanh, tên khai sinh là Nguyễn Đức Phiên, là nhà phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
2. Tác phẩm
- Xuất xứ: In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.103 - 105.
- Kiểu văn bản:
XUÂN DIỆU
[...]
Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăng nằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hạn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn sẽ nhạt?
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi!
ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên rất có duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt hôm qua? Nếu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: Người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sông. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu.
Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến:
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
cùng cái:
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu, chỉ Xuân Diệu mới thấy:
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình.
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
[...]
(In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.103 - 105)
Ngữ liệu trên thuộc kiểu văn bản nào?
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
- Bố cục:
XUÂN DIỆU
[...]
Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăng nằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hạn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn sẽ nhạt?
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi!
ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên rất có duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt hôm qua? Nếu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: Người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sông. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu.
Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến:
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
cùng cái:
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu, chỉ Xuân Diệu mới thấy:
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình.
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
[...]
(In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.103 - 105)
Nối các phần với nội dung tương ứng.
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Phong cách thơ Xuân Diệu
- Những từ ngữ, hình ảnh bàn về phong cách thơ Xuân Diệu:
+ lối dùng chữ quá Tây.
+ ý tứ mượn trong thơ Pháp.
+ cái dáng dấp yêu kiều.
+ cái cốt cách phong nhã của điệu thơ.
+ một cái gì rất Việt Nam.
+ một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy.
+ nồng nàn, tha thiết.
+ rung động tinh vi.
+ tâm hồn phức tạp.
+ ...
- Thơ Xuân Diệu thuộc phong cách lãng mạn, vừa truyền thống vừa mới mẻ.
Những căn cứ cho thấy thơ Xuân Diệu thuộc phong cách lãng mạn:
+ Nội dung:
- Thơ tập trung thể hiện những cảm xúc, suy tư của con người trước cuộc sống.
- Nổi bật là những bài thơ về tình yêu, tuổi trẻ và sự sống.
- Quan niệm sống mới mẻ, tích cực: "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm".
+ Nghệ thuật:
- Sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, chủ yếu là thơ thất ngôn và thơ tự do.
- Sử dụng ngôn ngữ thơ giàu sức gợi tả, gợi cảm.
- Xây dựng hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo.
- Có giọng thơ đa dạng, thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc.
- Cái tôi trong thơ Xuân Diệu:
XUÂN DIỆU
[...]
Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăng nằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hạn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn sẽ nhạt?
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi!
ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên rất có duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt hôm qua? Nếu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: Người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sông. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu.
Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến:
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
cùng cái:
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu, chỉ Xuân Diệu mới thấy:
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình.
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
[...]
(In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.103 - 105)
Văn bản trên cho biết thơ Xuân Diệu bộc lộ cái tôi như thế nào? (Chọn 2 đáp án)
=> Hoài Thanh - Hoài Chân đã có những phân tích, đánh giá rất đúng đắn. Để làm sáng tỏ quan điểm của mình, hai tác giả này đã dùng những lí lẽ sắc bén, những bằng chứng xác thực, tiêu biểu được trích từ các tác phẩm thơ của Xuân Diệu.
2. So sánh hình ảnh thơ "con cò" trong thơ Xuân Diệu với "con cò" trong thơ Vương Bột.
- Vương Bột là nhà thơ đời Đường (Trung Quốc) nổi tiếng với câu thơ sau
Phiên âm:
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
Dịch nghĩa:
Ráng chiều với cánh cò đơn độc cùng bay
Nước mùa thu với trời rộng một màu
- Tác giả Hoài Thanh - Hoài Chân so sánh hình ảnh thơ "con cò" trong thơ Xuân Diệu với "con cò" trong thơ Vương Bột như sau: Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
+ hơn một ngàn năm:
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
Chọn cách hiểu đúng về cụm từ hơn một ngàn năm trong nhận xét trên của Hoài Thanh - Hoài Chân.
+ hai thế giới: sự khác biệt về văn hóa giữa hai nước và sự khác biệt về phong cách sáng tác của hai tác giả.
=> Hoài Thanh - Hoài Chân đã có nhận xét độc đáo, tinh tế, chính xác.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung
Văn bản đã chứng minh được thơ Xuân Diệu rất riêng nhưng vẫn mang đậm nét đặc trưng của nền văn học Việt Nam ta. Qua đó, ta thấy được Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn, yêu đời, tha thiết với cuộc sống; luôn vươn tới cái hoàn mĩ, tuyệt đích.
2. Nghệ thuật
XUÂN DIỆU
[...]
Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta. Đọc những câu:
Nếu hương đêm say dậy với trăng nằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
hay là:
Chính hôm nay gió dại tới trên đồi,
Cây không hạn để ngày mai sẽ mát;
Trời đã thắm, lẽ đâu vườn sẽ nhạt?
Đắn đo gì cho lỡ mộng song đôi!
ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối làm duyên rất có duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ.
Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt hôm qua? Nếu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: Người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lí. Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sông. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân Diệu.
Trong cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến:
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
cùng cái:
Cành biếc run run chân ý nhi.
Nghe đàn dưới trăng thu, chỉ Xuân Diệu mới thấy:
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình.
và mới có cái xôn xao gửi trong mấy hàng chữ lạ lùng này:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
Cũng chỉ Xuân Diệu mới tìm được nơi đồng quê cái cảnh:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới.
[...]
(In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.103 - 105)
Ý nào không phải là đặc sắc nghệ thuật của văn bản trên?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây