

Trần Đăng Khoa
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ là biểu cảm Câu 2 Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát Câu 3 Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ: - Phép đối lập (tương phản):"đông hàn tiều tụy" (mùa đông lạnh lẽo, tiêu điều) ↔ "xuân noãn huy hoàng" (mùa xuân ấm áp, rực rỡ). - Tác dụng:Nhấn mạnh sự đối lập giữa khó khăn và hạnh phúc, gian khổ và thành quả, qua đó khẳng định quy luật của cuộc sống: phải trải qua thử thách mới đạt được thành công. Câu 4 Đối với nhân vật trữ tình, tai ương không chỉ là điều tiêu cực mà còn là cơ hội rèn luyện bản thân. Nó giúp con người trở nên mạnh mẽ, tinh thần thêm hăng hái, kiên cường hơn. Câu 5 Bài học ý nghĩa nhất rút ra từ bài thơ: Cuộc sống luôn có những khó khăn, thử thách, nhưng chính những điều đó giúp ta trưởng thành và mạnh mẽ hơn. Thay vì sợ hãi, chúng ta nên đón nhận và xem đó là cơ hội để rèn luyện bản thân, vì sau gian nan sẽ là thành quả xứng đáng
Câu 1: Con người sống trên Trái Đất không chỉ tồn tại đơn lẻ mà là một phần của một hệ sinh thái rộng lớn, bao gồm muôn loài động thực vật và thiên nhiên. Yêu thương vạn vật không chỉ là biểu hiện của lòng nhân ái mà còn là trách nhiệm của chúng ta đối với môi trường và sự cân bằng sinh thái. Khi biết yêu thương và bảo vệ vạn vật, con người sẽ nhận ra rằng mọi sinh vật đều có giá trị và vai trò riêng trong chuỗi sự sống. Hành động tàn phá thiên nhiên, bóc lột động vật hay thờ ơ trước sự đau khổ của muôn loài không chỉ gây tổn hại đến môi trường mà còn phản ánh sự thiếu hiểu biết và vô cảm của con người. Yêu thương vạn vật còn giúp chúng ta nuôi dưỡng tâm hồn, sống chan hòa và biết trân trọng những điều nhỏ bé xung quanh. Hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ như tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ động vật hoang dã, và lan tỏa thông điệp sống xanh để cùng nhau xây dựng một thế giới hài hòa và bền vững.
Câu 2: Đoạn thơ "Bên kia sông Đuống" trích từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Hoàng Cầm đã khắc họa một cách chân thực và xúc động sự biến đổi của quê hương trước và sau chiến tranh. Qua những hình ảnh giàu sức gợi, tác giả đã tái hiện một quê hương yên bình, trù phú bị hủy hoại bởi sự tàn phá của chiến tranh, đồng thời thể hiện nỗi đau và niềm tiếc nuối trước cảnh vật và con người bị chia lìa.
Trước chiến tranh, quê hương hiện lên với vẻ đẹp thanh bình, no ấm và giàu bản sắc văn hóa. Hình ảnh "lúa nếp thơm nồng" gợi lên một vùng quê trù phú, nơi con người sống hòa hợp với thiên nhiên, hưởng trọn hương vị ngọt ngào của đất trời. Tranh Đông Hồ với "gà lợn nét tươi trong" và "màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp" không chỉ là biểu tượng của nghệ thuật dân gian mà còn là niềm tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời. Những hình ảnh này cho thấy quê hương không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có về tinh thần, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, khi chiến tranh ập đến, quê hương ấy bị hủy hoại một cách tàn khốc. Từ "ngày khủng khiếp" đánh dấu sự chuyển biến đột ngột từ cảnh thanh bình sang cảnh tang thương. Hình ảnh "giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn" gợi lên sự tàn phá dữ dội, không chỉ hủy hoại cảnh vật mà còn đốt cháy cả những giá trị tinh thần. Ruộng đồng khô cằn, nhà cửa cháy rụi, và cảnh "chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu" cho thấy sự hỗn loạn và đau thương bao trùm lên mảnh đất từng yên bình. Những hình ảnh này không chỉ là sự mất mát về vật chất mà còn là sự đổ vỡ về tinh thần, khi con người và cảnh vật đều bị xé nát.
Đặc biệt, hình ảnh "mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa trăm ngả" và "đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã, bây giờ tan tác về đâu?" là những biểu tượng đầy ám ảnh về sự chia lìa và mất mát. Đàn lợn trong tranh Đông Hồ vốn tượng trưng cho sự no ấm, hạnh phúc, nay bị chia lìa, phản ánh sự đổ vỡ của những giá trị truyền thống. Đám cưới chuột, vốn là hình ảnh vui tươi, nhộn nhịp trong tranh dân gian, nay cũng trở nên tan tác, biến mất. Những hình ảnh này không chỉ là nỗi đau của quê hương mà còn là nỗi đau của cả một dân tộc, khi chiến tranh không chỉ cướp đi cuộc sống mà còn hủy hoại cả những giá trị văn hóa, tinh thần.
Qua đoạn thơ, Hoàng Cầm đã khéo léo sử dụng những hình ảnh đối lập để làm nổi bật sự biến đổi của quê hương. Từ một nơi yên bình, trù phú, quê hương trở thành một vùng đất tang thương, đổ nát. Sự biến đổi này không chỉ là sự thay đổi về cảnh vật mà còn là sự thay đổi về tâm trạng, từ niềm tự hào, hạnh phúc đến nỗi đau, tiếc nuối. Đoạn thơ không chỉ là lời tố cáo tội ác của chiến tranh mà còn là tiếng lòng tha thiết của tác giả, mong muốn quê hương sớm trở lại với vẻ đẹp thanh bình, no ấm ngày nào.
Câu 1: Con người sống trên Trái Đất không chỉ tồn tại đơn lẻ mà là một phần của một hệ sinh thái rộng lớn, bao gồm muôn loài động thực vật và thiên nhiên. Yêu thương vạn vật không chỉ là biểu hiện của lòng nhân ái mà còn là trách nhiệm của chúng ta đối với môi trường và sự cân bằng sinh thái. Khi biết yêu thương và bảo vệ vạn vật, con người sẽ nhận ra rằng mọi sinh vật đều có giá trị và vai trò riêng trong chuỗi sự sống. Hành động tàn phá thiên nhiên, bóc lột động vật hay thờ ơ trước sự đau khổ của muôn loài không chỉ gây tổn hại đến môi trường mà còn phản ánh sự thiếu hiểu biết và vô cảm của con người. Yêu thương vạn vật còn giúp chúng ta nuôi dưỡng tâm hồn, sống chan hòa và biết trân trọng những điều nhỏ bé xung quanh. Hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ như tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ động vật hoang dã, và lan tỏa thông điệp sống xanh để cùng nhau xây dựng một thế giới hài hòa và bền vững.
Câu 2: Đoạn thơ "Bên kia sông Đuống" trích từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Hoàng Cầm đã khắc họa một cách chân thực và xúc động sự biến đổi của quê hương trước và sau chiến tranh. Qua những hình ảnh giàu sức gợi, tác giả đã tái hiện một quê hương yên bình, trù phú bị hủy hoại bởi sự tàn phá của chiến tranh, đồng thời thể hiện nỗi đau và niềm tiếc nuối trước cảnh vật và con người bị chia lìa.
Trước chiến tranh, quê hương hiện lên với vẻ đẹp thanh bình, no ấm và giàu bản sắc văn hóa. Hình ảnh "lúa nếp thơm nồng" gợi lên một vùng quê trù phú, nơi con người sống hòa hợp với thiên nhiên, hưởng trọn hương vị ngọt ngào của đất trời. Tranh Đông Hồ với "gà lợn nét tươi trong" và "màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp" không chỉ là biểu tượng của nghệ thuật dân gian mà còn là niềm tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời. Những hình ảnh này cho thấy quê hương không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có về tinh thần, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, khi chiến tranh ập đến, quê hương ấy bị hủy hoại một cách tàn khốc. Từ "ngày khủng khiếp" đánh dấu sự chuyển biến đột ngột từ cảnh thanh bình sang cảnh tang thương. Hình ảnh "giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn" gợi lên sự tàn phá dữ dội, không chỉ hủy hoại cảnh vật mà còn đốt cháy cả những giá trị tinh thần. Ruộng đồng khô cằn, nhà cửa cháy rụi, và cảnh "chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu" cho thấy sự hỗn loạn và đau thương bao trùm lên mảnh đất từng yên bình. Những hình ảnh này không chỉ là sự mất mát về vật chất mà còn là sự đổ vỡ về tinh thần, khi con người và cảnh vật đều bị xé nát.
Đặc biệt, hình ảnh "mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa trăm ngả" và "đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã, bây giờ tan tác về đâu?" là những biểu tượng đầy ám ảnh về sự chia lìa và mất mát. Đàn lợn trong tranh Đông Hồ vốn tượng trưng cho sự no ấm, hạnh phúc, nay bị chia lìa, phản ánh sự đổ vỡ của những giá trị truyền thống. Đám cưới chuột, vốn là hình ảnh vui tươi, nhộn nhịp trong tranh dân gian, nay cũng trở nên tan tác, biến mất. Những hình ảnh này không chỉ là nỗi đau của quê hương mà còn là nỗi đau của cả một dân tộc, khi chiến tranh không chỉ cướp đi cuộc sống mà còn hủy hoại cả những giá trị văn hóa, tinh thần.
Qua đoạn thơ, Hoàng Cầm đã khéo léo sử dụng những hình ảnh đối lập để làm nổi bật sự biến đổi của quê hương. Từ một nơi yên bình, trù phú, quê hương trở thành một vùng đất tang thương, đổ nát. Sự biến đổi này không chỉ là sự thay đổi về cảnh vật mà còn là sự thay đổi về tâm trạng, từ niềm tự hào, hạnh phúc đến nỗi đau, tiếc nuối. Đoạn thơ không chỉ là lời tố cáo tội ác của chiến tranh mà còn là tiếng lòng tha thiết của tác giả, mong muốn quê hương sớm trở lại với vẻ đẹp thanh bình, no ấm ngày nào.
1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận.
2. Nội dung chính của văn bản: Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, sự trân trọng của con người dành cho thuên nhiên.
3. Biện pháp tu từ có trong đoạn trích: Điệp cấu trúc
=> Tác dụng: Tạo nhịp điện cho đoạn văn khiến nó giàu chất thơ, tăng sự hàm súc cho câu văn. Nhấn mạnh sự vô tư, bao dung, độ lượng, sự thứ tha của tự nhiên đối với con người.
4. Tác giả lại nói “Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm”?
Vì con người quá vô tư trước những tổn thương mà mình gây ra cho người khác vì vậy bản thân chúng ta cũng nên bị thương để hiểu được làm đau người khác là làm đau chính mình. Lúc ấy, ta sẽ biết yêu thương, sẻ chia, hoà vào thế giới này bằng trái tim độ lượng. Ta sẽ biết thấu hiểu, trân trọng thiên nhiên, đồng loại ,dẹp bỏ đi thói ích kỉ, vô tâm, thờ ơ để có thể thấu hiểu quan tâm đến mọi người.
5. Thông điệp đắc nhất qua văn bản trên là ý thức về việc con người đã gây tổn thương và làm hại cho thiên nhiên. Văn bản muốn nhắc nhở chúng ta cần có sự quan tâm và bảo vệ môi trường, không gây tổn thương cho các yếu tố thiên nhiên quan trọng trong cuộc sống. Vì con người quá vô tư trước những tổn thương mà mình gây ra cho người khác vì vậy bản thân chúng ta cũng nên bị thương để hiểu được làm đau người khác là làm đau chính mình. Lúc ấy, ta sẽ biết yêu thương, sẻ chia, hoà vào thế giới này bằng trái tim độ lượng. Ta sẽ biết thấu hiểu, trân trọng thiên nhiên, đồng loại, dẹp bỏ đi thói ích kỉ, vô tâm, thờ ơ để có thể thấu hiểu quan tâm đến mọi người.
Câu 1:
Thể thơ: Tự do
Câu 2:
Cảm xúc mà nhân vật trữ tình thể hiện là cảm xúc nhớ nhung và ước ao
Câu 3:
Biện pháp tu từ nhân hoá: Mưa cướp đi ánh sáng của ngày
Biện pháp nhân hoá làm sống động hơn những cơn mưa liên tục trong ngày
Câu 4
Chúng ta cần phải học cách chấp nhận và học cách giải quyết vấn đề bất chợt,hãy đối mặt và hãy cố giải quyết vấn đề 1 cách tốt nhất