K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 10 2018

A. Mở bài:

Giới thệu : về tác giả, tác phẩm ( hoàn cảnh sáng tác , lai lịch,...). Lưu ý xác định ngôi kể ngay từ đầu (cj sẽ đóng vai là ng dẫn tryện nhé,dạng nhưu ngôi 3ấy)

B. Thân bài:

1. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện: Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể:

- Chi tiết người chú khi gặp Lượm.

Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm.

- Chi tiết Lượm đi chuyển thư.

- Lượm hi sinh,…

2. Suy nghĩ của người kể về cái chết của ché bé Lượm : đau xót, tieevs thương cho chú đồng chí nhỏ dũng cảm :v...:vv

C. Kết bài: Nêu lên suy nghĩ, tình cảm của mình về chú bé Lượm

Lưu ý : Viết = lời văn của mình, tránh lấy y nguyên lời văn thơ, trong bài -> bài sẽ k hay, kém bất ngờ, diễn đạt thô

Cố gắng đọc qua 1 lần bài thơ, k nên để chăm chăm bài thơ trc mặt, điều này sẽ khiến bản thân phụ thuộc vào sách , vào lwoif thơ quá nhiều -> k sáng tạo ra dcd lời văn của riêng mình

-----cứ tham khảo, nghiên cứu kĩ đi e nhá, mai cj làm cho--------

20 tháng 10 2018

Việt Nam là một đất nước anh hùng, chiến tranh nổ ra thì mọi người dân Việt Nam đều đồng khởi đứng lên đấu tranh, chống lại quân cướp nước. Điều đáng nói là trong dân tộc anh hùng đó, không chỉ có những bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất làm nên những chiến công vang lừng, mà ngay cả những người phụ nữ, người già, trẻ em cũng đều trở thành những người chiến sĩ quả cảm khi đất nước đứng trước màn đêm nô lệ. Ta có thể nghe nói đến sự anh dũng của của những bậc nữ trung hào kiệt như: Hai Bà Trưng, bà Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, Võ Thị Sáu…nhưng những tấm gương về những đứa bé anh hùng khiến chúng ta bất ngờ, khâm phục. Một trong những cậu bé anh hùng đó chính là chú bé Lượm.

Đó là những ngày chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà cụ thể là vào năm 1949, khi thực dân Pháp dáo diết đàn áp cách mạng Việt Nam, mở những cuộc tấn quy mô lớn lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt Đảng, tiêu diệt chính phủ, kết thúc chiến tranh. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn nhưng những người dân Việt Nam không hề lùi bước mà kiên cường đấu tranh chống Pháp. Một trong những việc quan trọng nhất của cách mạng ngày ấy chính là công tác liên lạc giữa chiến khu với các địa phương trong cả nước. Và người thực hiện những công tác liên lạc đó không chỉ thành thạo đường mà còn phải vô cùng dũng cảm, bởi trên đường đưa tin bất cứ lúc nào cũng có thể bị giặc bắt hay bị đạn lạc của chiến tranh làm cho hi sinh.

Và điều bất ngờ hơn cả là trên mảnh đất của những anh hùng ấy, không chỉ có những người trưởng thành có ý thức chiến đấu chống giặc, mà ngay cả những cậu bé mười hai mười ba tuổi cũng tràn lòng căm thù và tinh thần chống giặc sâu sắc. Cậu bé Lượm là một cậu bé như vậy, dù còn nhỏ tuổi nhưng Lượm đã tình nguyện xung phong làm công tác đưa tin cho cán bộ. Ở độ tuổi của Lượm thì quân giặc cũng mất cảnh giác hơn, nhưng không phải vì vậy mà tránh được những hiểm nguy cận kề của chiến tranh. Hành trình đưa tin của Lượm không phải chỉ trải qua một hai khó khăn, mà đôi khi chỉ một hành động bất cẩn cũng có thể khiến em hi sinh, nhưng ở cậu bé Lượm luôn có tinh thần lạc quan yêu đời, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi, kể cả khi em đã hi sinh cho đất nước thì nụ cười ấy cũng chưa bao giờ tắt.

Lượm là một chú bé tầm mười hai, mười ba tuổi, dáng vẻ hồn nhiên đáng yêu thể hiện ra ngay ở hình dáng bên ngoài của em, đó là một chú bé có vóc dáng nhỏ bé, loắt choắt, đầu đội chiếc mũ ca nô, nhưng sự đáng yêu thể hiện ngay trong cách đội mũ ấy. Bởi Lượm không đội ngay ngắn bao giờ, lúc nào cũng đội lệch, cái đầu thì nghênh nghênh, miệng lúc nào cũng huýt sáo, hát lên những bài hát đầy vui vẻ. Dáng vẻ tươi vui, bước chân nhanh nhẹn khiến cho người nhìn liên tưởng em như những chú chim chích với đôi chân nhảy nhanh thoăn thoắt trên đường.

Trên đường làm công tác liên lạc, Lượm gặp nhiều những người lính, những người bộ đội đang làm nhiệm vụ. Cậu bé rất lễ phép, hễ gặp ai thì cũng chào hỏi nhiệt tình, khi được các chú hỏi han thì cậu bé rất tự hào nói với các chú rằng: Cháu đang làm công tác liên lạc, khi những người lính hỏi cậu bé không sợ à? Thì cậu bé rất khảng khái thể hiện được niềm yêu thích với công việc liên lạc của mình: Thích lắm chú ạ. Và điều khiến cho những người lính khâm phục hơn nữa ở cậu bé này, chính là tinh thần kiên cường, dũng cảm của cậu bé, chú nói ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà. Có lẽ cái “thích” mà cậu bé Lượm nói đến đó chính là cái ý nghĩa cao đẹp của công việc liên lạc mang lại.

Lượm là cậu bé vô cùng vui vẻ, hài hước, trước khi chia tay những người lính, cậu bé đã để tay lên đầu, đứng nghiêm trang và nói “Thôi, chào đồng chí” với khuôn miệng chúm chím nụ cười dễ thương. Có thể thấy dù hồn nhiên, yêu đời nhưng Lượm lúc nào cũng ý thức được nhiệm vụ của mình, bởi công tác liên lạc đòi hỏi sự bí mật, nhanh chóng nên dù vui khi được gặp những người lính thì chú bé cũng đều chủ động nói lời chia tay và tiếp tục lên đường. Nhưng, không khí chiến tranh quá khốc liệt, vì một bức thư “Thượng Khẩn” không thể chậm chễ nên Lượm đã vượt qua mưa bom bão đạn, không để ý đến sự an nguy của bản thân mà muốn nhanh chóng đưa thông tin cho cán bộ, bởi sự tình đang vô cùng cấp thiết.

Nhưng, thật đau lòng thay, viên đạn vô tình, khốc liệt đã gim vào người em, Lượm ngã xuống, miệng vẫn lấp lánh tia cười đầy hồn nhiên. Lượm đã hi sinh dũng cảm cho đất nước nhưng trong tâm thức của người Việt Nam, em luôn bất tử, lúc nào cũng là một cậu bé hồn nhiên, đội chiếc mũ ca nô lệch, miệng huýt sáo vang….

Phiền bé tham khảo hộ cj nhé :(( so sr

8 tháng 11 2021

Tham khảo:

Chiến thắng 1945 mới kết thúc chưa được bao lâu, tôi - người nông dân ở vùng quê nghèo khó còn chưa kịp tận hưởng niềm vui độc lập thì thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược trở lại. Theo lệnh tổng động viên của chính phủ, tôi để lại quê hương mà lên đường kháng chiến, mỗi người chúng tôi đề quyết tâm không để đất nước mình rơi vào tay của thực dân pháp một lần nào nữa.

Dù trước chỉ quen cầm quốc, cầm xẻng, lo việc đồng áng và vườn tược, nay tuy cầm suy có chút không quen nhưng tôi tin với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm của mình thì không gì là không thể. Chúng tôi hành quân khắp các nẻo đường trận mạc, chúng tôi không sợ đêm tối vì có trăng soi đường bước đi. Tôi và những người đồng đội ở đây hơn ai hết là những người mong muốn đất nước được độc lập tự do, bởi vậy mà cho dù khó khăn gian lao đến đâu cũng giành cho bằng được.

1947, chúng tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác, vốn là không quen nhau đấy mà nay đã trở thành những người đồng chí, anh em một nhà, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, đắng cay. Thứ gắn kết chúng tôi ở đây chính là tinh thần yêu nước có trong mỗi con người, chúng tôi trở thành tri kỉ không biết tự bao giờ.

Vẫn nhớ khi đó chúng tôi sinh hoạt thiếu thốn, đến quân trang, quân dụng còn chẳng đủ để dùng, hai người phải chia nhau một tấm chăn đơn. Rừng Trường Sơn nguy hiểm lắm, ma thiêng nước độc, có lần cả đơn vị tôi bị bệnh sốt rét rừng mà vàng da, rụng tóc, cả người xanh như tàu lá chuối, nhưng thật hay là chúng tôi chưa bao giờ ngừng tiếng cười. Mùa đông đến, cái rét như cắm vào da thịt chúng tôi, người thì áo rách, người thì quần đầy mảnh, có người thì chân không giày,... Chúng tôi cứ thế mà dựa vào nhau, truyền cho nhau hơi ấm, nắm tay nhau tiếp thêm sức mạnh chiến đấu và vượt qua bệnh tật. Có đêm tôi và một người đồng chí tâm sự với nhau, anh nói ruộng nương ở nhà anh nhờ bạn thân cày cấy, bỏ lại căn nhà tranh liêu xiêu cuối láng, dứt lòng để lại cả mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận chiến đấu.

Dù khó khăn gian khổ đến mấy chúng tôi chưa bao giờ vơi được tiếng cười, giữa không gian núi rừng Trường Sơn đại ngàn đó, dưới cái trời lạnh căm căm đó chúng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không ai nói với ai câu nào, chỉ nghe thấy tiếng gió heo hút thổi trên ngon cây mà lòng vẫn thấy ấm áp. Cuộc chiến còn dài, chúng tôi những người lính vùng quê này vẫn còn phải rời xa quê hương thêm khoảng thời gian nữa. Tuy trong lòng có chút buồn rầu, nhưng cứ hễ nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay thì mọi lo âu, sợ hãi đều tan biến hết. Tôi và những người đồng đội nơi đây chất nhận mọi gian khổ, khó khăn để có thể đưa lá cờ đỏ sao vàng đỏ tung bay giữa bầu trời hòa bình. Sống và chiến đấu cho lí tưởng cao cả như vậy, đời lính chúng tôi đâu còn gì tuyệt vời bằng.

12 tháng 10 2016
Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ, đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do mà ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày dó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương. Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: Ôi chú Lành ! Chú về hồi nào vậy ? Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca lô –    Ồ ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng thân yêu của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe: –    Cháu làm liên lạc ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm liên lạc… Vui lắm chú à!
Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ửng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: Thôi, chào đồng chí! kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon. Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay những người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi… Mỗi khi nghĩ đến Lượm, tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng. 
7 tháng 11 2021

Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi.

Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng.

Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm tỏa khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con.

Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ:

- Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không?

Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ:

- Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc!

Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi.

Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng:

- Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ!

Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi:

- Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!

Nghe Bác nói, tôi càng hiểu tình thương của Người sâu nặng, bao la biết chừng nào! Bác lo cho chiến sĩ, dân công, cũng là lo cho chiến dịch, cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh dũng của toàn dân. Tình thương ấy bao trùm lên đất nước và dân tộc.

Sung sướng và tự hào biết bao, tôi được làm người chiến sĩ chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, của Bác! Bác đã khơi dậy trong tôi tình đồng đội, tình giai cấp đẹp đẽ và cao quý. Không đành lòng ngủ yên trong chăn ấm, bên bếp lửa hồng, khi những đồng đội của mình còn phải chịu bao gian khổ, tôi thức luôn cùng Bác. Dường như hiểu được lòng tôi, những ngọn lửa hồng cũng nhảy múa reo vui và càng thêm rực sáng.

14 tháng 9 2019

Đoạn cuối Lượm hy sinh òi thì sao mà kể đc hết câu chuyện

28 tháng 2 2022

Trả lời các câu hỏi ở trên

29 tháng 6 2019

1. Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện mà em chọn kể (Lượm hoặc Đêm nay Bác không ngủ) và xác định ngôi kể (ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba).

2. Thân bài:

a. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện:

Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể:

- Chi tiết người chú gặp Lượm.

- Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm.

- Chi tiết Lượm đi chuyển thư.

- Lượm hi sinh,...

b. Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh.

3. Kết bài: Tưởng tượng về kết thúc của câu chuyện (VD: Sau ngày giải phóng, người chú về thăm mộ Lượm.)

đoạn văn hay bài văn

14 tháng 7 2021

bài văn akhaha

 

8 tháng 10 2017

Bài làm

   Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do chúng ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc gặp giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày đó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương.

   Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: "Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy?". Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca nô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao. Cháu cười, phô hàm răng trắng đều, sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.

  Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:

   - Cháu làm liên lạc. Ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm việc... Vui lắm chú à!

   Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ứng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: "Thôi, chào đồng chí!" kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon.

   Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi...

   Mỗi khi nghĩ đến Lượm, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng.

Hồi ấy phong trào nhân dân yêu nước ở Huế lên cao và bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Tôi được lệnh của mặt trận cách mạng về Hà Nội. Tình cờ đến Hàng Bè, tôi gặp một chú bé đang nhảy nhót trên đường phố! Ngỡ là một chú bé học trò tan trường, nhưng không, chú bé ấy đến gần tôi, trao mật khẩu, rồi đưa cho tôi một bức mật thư. Lúc bấy giờ, tôi mới biết cháu nhỏ ấy tên là Lượm, liên lạc cho mặt trận Việt Minh.

Liếc qua thơ tôi thấy nội dung có nhắc đến vài địa danh mà tôi không rõ. Tôi gọi theo Lượm:

– Cháu ơi! Đi uống với chú cốc nước trà đã nào!

– Nhà cháu nghèo lắm, ở ngoại thành Hà Nội, cha cháu bị Tây bắn. Mẹ cháu nuôi hai con nhỏ. Cháu thù chúng nó. Đi làm công tác này để rửa hận cho cha, giúp ích cho nước! ởđồn Mang Cá cháu còn thích hơn ở nhà.

Ra khỏi quán, tôi hỏi gấp Lượm về tình hình Hà Nội. Rồi bảo: “Cháu khéo giữ gìn mọi mặt nhé! Cháu giỏi lắm. Nhưng chú vẫn phải nhắc thêm! Tạm biệt!”.

Không ngờ Lượm giơ tay lên trán “chào đồng chí” Rồi nheo mắt cười híp mí! Má Lượm đỏ sẫm như trái bồ quân. Đôi chân nhí nhảnh lại tung tăng, miệng lại véo von huýt sáo, chiếc ca lô lệch vẫn vắt vẻo, tung tẩy theo bước chân.

Công việc cách mạng ngày càng khẩn trương, cấp bách. Một hôm có người đồng chícùng quê ở Hà Nội gặp tôi. Kểvề Lượm: Hôm ấy cũng nhưmọi hôm, Lượm bỏ thư vào bao, chuẩn bị chuyến công tác đặc biệt. Nhưng Lượm nôn nóng, vì trong ấy có một lá thư “thượng khẩn” cháu đã xếp riêng bỏ trong túi quần. Con đường đưa thư lại băng qua cánh đồng vắng. Một bên là một đồn gác nhỏ của giặc. Bên kia là căn cứ bí mật của cách mạng. Nhưng nghĩ đến lá thư thựơng khẩn, Lượm không sợ chi hiểm nghèo. Em cứ băng qua đồng lúa, vừa đi vừa huýt sáo. Thỉnh thoảng, dừng lại lấy mũ ca lô chụp bướm, chuồn chuồn, giả vờ che mắt giặc. Ca lô chú bé cứ nhấp nhô, nhấp nhô.

Nhưng chúng không tha! “Đùng”! Viên đạn vô tình xuyên qua lồng ngực. Em ngã xuống cánh đồng. Lúc ấy Lượm chỉ còn cách căn cứ hai mươi mét. Để cứu em và để bảo mật thư từ, quân cách mạng phải lộ mặt nổ súng tấn công, hạ đồn giặc Pháp. Lúc đến cạnh bên Lượm, các chiến sĩ lặng nhìn. Em nằm trên lúa, cánh tay nắm một nhánh đòng đòng, đôi mắt nhắm nghiền như chìm trong giấc ngủ say. Phải chăng Lượm đã trở về chiếc nôi êm ái, một chiếc nôi thơm tho mùi lúa, báo hiệu một mùa vàng thắng lợi của quê hương?

Lượm ơi!

Cái chú bé loắt choắt, đeo cái xắc nho nhỏ xinh xinh véo von, ca lô đội lệch, với đôi chân sáo thoăn thoắt nhảy nhót bên hè. Nay đã đâu rồi? Lượm ơi! Cái chú bé huýt sáo vang một góc trời, nay đã đâu rồi?