K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 10 2020

Gợi ý:
- Từ “đông” có nghĩa là phía đông, biển đông.
- Hai nghĩa khác nhau của từ “đông”
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông đúc, nhiều
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông cứng
+ Là từ chỉ phương hướng: hướng đông, phía đông
VD: Đằng đông, từng đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau về bờ.
- Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số lượng cá thu được nhiều đến mức làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền khi ánh nắng chiếu vào thân cá => thành quả lao động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền cá đó thể hiện ánh sáng sự bội thu “Mùa vàng”.
- Ví dụ về hai câu thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ.
- VD: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
VD: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

8 tháng 10 2020

bạn chép mạng ư

17 tháng 3 2022

C :bạc vàng

17 tháng 3 2022

hép mi pờ lít

Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số lượng cá thu được nhiều đến mức làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền khi ánh nắng chiếu vào thân cá \(\Rightarrow\) thành quả lao động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền cá đó thể hiện ánh sáng sự bội thu “Mùa vàng”.

#Y/n

7 tháng 11 2021

biện pháp : ẩn dụ

=> câu thơ xuất phát từ hình ảnh thực: dưới ánh nắng ban mai của buổi sớm , những con cá tươi  ngon vừa được kéo lên từ biển, vẩy cá được ánh bình minh chiếu rọi lung linh nhiều màu sắc làm lóe sáng cả rạng đông trên biển.

=> Câu thơ còn giúp ta liên tưởng tới 1 cuộc sống tươi đẹp, tương lai mới của người lao động.

==> Câu thơ vẽ nên 1 bức tranh tươi sáng, ấm áp bởi sự hòa quyện màu sắc: màu bạc của vảy cá, màu vàng của rạng đông.

22 tháng 12 2021

 Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

27 tháng 10 2019

Chọn đáp án: A.

Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào Sao mở kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, Vây bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồn lên đón nắng hồng 1.Đoạn trích trên thuộc văn bản nào?Tác giả là au?Nêu tên hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ 2.Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng...
Đọc tiếp

Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào Sao mở kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, Vây bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồn lên đón nắng hồng 1.Đoạn trích trên thuộc văn bản nào?Tác giả là au?Nêu tên hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ 2.Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ:"Biển cho ta các như lòng mẹ-Nuôi lớn đời ta tự buổi nào." 3.Đoạn thơ trên đã thể hiện vẻ đẹp và tâm trạng của người dân chài lưới trong công việc lao động.Hãy viết một đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu làm rõ điều đó.Trong đoạn văn có sử dụng một câu nghi vấn để bộc lộ cảm xúc và một lời dần trực tiếp.(gạch chân và chú thích rõ) 4.Trong chương trình Ngữ Văb THCS có những câu thơ cũbg viết về hình ảnh người dân chài lưới.Hãy chép chính xác hai câu thơ ấy và cho biết tên tác phẩm. giúp mình vớiii

0
4 tháng 4 2023

huhu giúp mình với

 

4 tháng 4 2023

Hình ảnh những ngư dân đã ra biển bắt cá từ bình minh đến khi trời đã sáng hẳn.

29 tháng 2 2020

* Khổ 3: Hình ảnh đoàn thuyền được tái hiện chân thực, sinh động hơn:

- Không gian vũ trụ, thiên nhiên bao la rộng mở được mở ra nhiều chiều:

  + Cao: bầu trời, mặt trăng.

  + Rộng: mặt biển.

  + Sâu: lòng biển.

=> Không gian vũ trụ kì bí là không gian nhiều chiều.

-  Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá hoàn toàn tương xứng với không gian ấy:

  + Khi sóng biển cồn lên, cánh buồm như chạm vào cả trăng sao, mây trời. “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”.

  + Khi buông lưới con thuyền như dò thấu tận đáy đại dương. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” -> hình ảnh con thuyền vừa lãng mạn, vừa mang tư thế làm chủ.

  + Hệ thống động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn” -> gợi hoạt động và tư thế làm chủ của đoàn thuyền.

  + Hệ thống hình ảnh: “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” -> con thuyền như mang sinh lực của đất trời để đánh cá trên biển.

=> Con người cũng đặt trong cảm hứng vũ trụ.

- Gợi hình tượng người lao động trên biển:

  + Tầm vóc lớn lao sánh cùng vũ trụ.

  + Làm chủ cả vũ trụ.

* Khổ 4, 5: Sự giàu có, phong phú, đẹp đẽ và hào phóng, bao dung của biển cả:

 - Liệt kê: “cá nhụ”, “cá chim”…:

  + Là những loài cá quý giá nhất -> sự hào phóng của biển cả.

  + Tô đậm ấn tượng về một vùng biển giàu có với sản vật phong phú.

- Hình ảnh tả thực và so sánh ngầm: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”:

  + Tả thực loài cá song: thân nó dài, có những chấm nhỏ màu đen hồng.

  + So sánh ngầm: Đàn cá song như ngọn đuốc làm sáng cả biển đêm.

=> Trí tưởng tượng phong phú và niềm tự hào vô bờ của tác giả. Khẳng định sự giàu có, phong phú của biển cả.

- Đại từ “em” -> nhân hóa câu thơ:

  + Cá không phải là đối tượng để đánh bắt mà là đối tượng để chinh phục.

  + Gợi hành trình chinh phục tự nhiên của con người.

=> “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” gợi ra một đêm trăng đẹp, ánh trăng thếp đầy mặt biển.

- Nhân hóa: “đêm thở”, “sao lùa” -> Vẻ đẹp của đêm trăng trên biển huyền ảo, thơ mộng.

- So sánh “như lòng mẹ”: Đại dương hóa ra đâu có vô tri mà cao cả như con người.

  + Là “nguồn sữa”, nguồn tài nguyên khổng lồ nuôi sống con người.

  + Ấm áp, bao dung, gần gũi, yêu thương con người như lòng mẹ.

-> Ẩn sau những câu thơ này là niềm hạnh phúc và lòng biết ơn của con người đối với ân tình của thiên nhiên, đất nước.

* Khổ 6: Khung cảnh lao động hăng say trên biển:

- Hệ thống từ ngữ: “kéo lưới”, “lưới xếp”, “buồm lên”…-> cảnh đánh cá.

- Cảnh được tái hiện:

  + Từ khúc hát lao động mê say: bài ca gọi cá vừa gợi nhịp điệu của một cuộc sống lao động đầy niềm vui, gợi tâm hồn phóng khoáng và yêu lao động của người dân chài.

  + Từ hình ảnh “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” gợi vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của người dân chài lưới, thân hình kì vĩ sánh ngang đất trời.

  + Từ những khoang thuyền đầy ắp cá (vẩy bạc, đuôi vàng) ta thấy được sự quý giá.

=> Qua đó ta thấy:

- Bức tranh thiên nhiên lộng lẫy, kì vĩ.

- Sự giàu có, hào phóng hào phóng của biển.

- Hình tượng người lao động bình dị mà lớn lao, phi thường.