K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

17 tháng 3 2021

sans gì

17 tháng 3 2021

Sans by ooOmeoOoo on DeviantArt

 sans thường

12 tháng 4 2018

Rô-bin-xơn Cru-xô trong đoạn trích "robinxon ngoài đảo hoang"là 1 nhân vật đáng yêu,đáng mến và đáng khâm phục.Sinh ra và lớn lên ở miền quê Y-oóc-sai của nước Anh,một ngày kia khi cả đoàn tàu bị đắm chìm một mình robinxon sống sót trôi dạt vào đảo hoang không môt bóng người.Ở đây,robinxon đã sống nhũng tháng ngày không bằng chết.Ấy vậy mà,con ngươi đó vẫn không chịu khuất phục trước hoàn cảnh,trước sfận anh vẫn đi lên bằng chính đôi tay,đôi chân,con người mình.Sống giữa nơi hoang vắng ko 1 bóng người,robinxon đã tự tạo trang phục và trang bị cho mình.Đó la mũ,là áo quần,là thăt lưng,dây đeo,gùi và súng.Tất ca mọi thứ đều đc làm từ da dê trông rất lôi thôi,cồng kềnh nhưng lại rất tiện dụng trong hoàn cảnh ở ngoài đảo hoang.Mọi thứ dường như rất kì kạ,ngộ nghĩnh,và khong thể tưởng tượng nổi nhưng đó thực sự la csống của"robinxon ngoài đảo hoang".Trang phục và trang bị của robinxon đấng yêu nhu thế đấy,nhưng chúng ta còn phải khâm phục anh hơn bởi anh là 1 con ng` có tinh thần dũng cảm,có nghị lực phi thg`.Là 1 con ng` có đầu óc thông minh,biết sáng tạo,cải biến hoàn cảnh. Đặc biệt anh còn là 1 con ng`có smạnh và khả năng lđộng chiến thắng thiên nhiên.Cuộc đời có những con ng` như robinxon sẽ làm ta yêu đời hơn,sống vững tin hơn.
Ơi sống đẹp là thế nào hỡi bạn
bữa cơm dù dưa muối đầy vơi
Chân lí chẳng cần chi đổi bán
Tình thương vô hạn để cho đời.
(Tố Hữu).

12 tháng 4 2018
Rô-bin-xơn là một chàng trai thích hoạt động, ưa phiêu lưu, say sưa đến những miền đất lạ, bất chấp sóng to, gió lớn và bao nỗi gian nan, nguy hiểm khác. Rô-bin-xơn xuống tàu ở Hơn, theo bạn đi Luân Đôn bằng đường biển. Cuộc hành trình không gặp may mắn, con tàu bị đắm chìm ở Y-ac-mao. Thế nhưng, tai họa ấy không làm chàng nản lòng. Cha mẹ khóc lóc, bạn bò can ngăn vẫn không lay chuyển được quyết tâm của chàng - chàng làm quen với một viên thuyền trưởng tàu buôn; lần này rời bến ở Ghi-nê. Chuyến đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Chuyến thứ hai gặp cướp biển, Rô-bin-xơn bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê, hai năm sau trốn thoát sang Bra-xin lập trang trại trồng trọt. Chàng vẫn không hề nao núng; vài nằm sau nghe lời các bạn rủ rê, chàng xuống tàu đi Ghi-nê dự định thực hiện một chuyên buôn bán, trao đổi lớn. Nào ngờ, tàu gặp bão lớn, mất phương hướng rồi bị đánh đắm. Các thủy thủ trên tàu đều mạng vong. Ngoại trừ Rô-bin-xơn một mình sống sót trôi giạt vào một đảo hoang không có dấu chân người.

Trong trích đoạn Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang, nhà văn kể chuyện Rô-bin-xơn ở trên đảo hoang vào khoảng từ năm thứ 9 đến năm thứ 15 (tính từ ngày bị đắm tàu).

Trước tiên, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí và nghị lực phi thường. Sớm gặp hoàn cảnh bất hạnh nhưng anh không nản chí, tuyệt vọng. Mặc dù sống cô đơn, không bạn bè, không người thân, nhưng anh “không ngồi rỗi, bằng lòng với những thứ mình đã có”. Anh say sưa làm việc đến quên cả mệt mỏi, nhọc nhằn. Anh luôn luôn được hưởng “cái thú hoàn thành một kết quả lao động mà trước kia mình phải bó tay”, nhờ phương pháp và tư tưởng tích cực: “Không còn nghĩ ngợi vẩn vơ”. Tính siêng năng, tháo vát đã giúp anh ngày càng “lành nghề trong nhiều ngành thủ công”. Anh trở thành thợ nặn rất khéo; ngoài bát đĩa, chum vại, bình vò thường dùng để cất trữ mọi thứ lương ăn, anh còn nặn được một cái tẩu hút thuốc, một công trình tuyệt mĩ đối với anh và anh lấy làm thích thú. Anh cũng trở thành một tay đan giỏi. Anh dùng miên liễu - một loại cây nhỏ, cành mềm rủ xuống, đan nhiều đồ dùng như: thúng (để mỗi lần săn bắn được hoặc kiếm được thức ăn thì bỏ vào thúng quẩy về nhà); bồ đựng thóc,... Ngoài ra, anh còn nảy thêm sáng kiến khác: chăn nuôi. Anh cảm thấy cần phải nuôi dê để cải tạo bừa ăn vì nguồn thực phẩm ngày càng cạn kiệt. Anh tâm sự: “Trong khoảng một năm rưỡi, tôi đã có một đàn mười hai con dê vừa lớn vừa nhỏ. Hai năm sau, số dê lên tới bốn mươi ba con và tôi bắt đầu giết thịt để ăn. Tôi làm thêm tất cả năm chuồng nữa nhỏ hơn, mỗi chuồng có nhiều ngăn để lúc cần thì bắt dê cho tiện”. Dường như chưa bằng lòng với năng lực sáng tạo của chính mình, anh ngẫm nghĩ đến chuyện vắt sữa dê - dù anh “nghĩ đến hơi muộn”. Nghĩ là làm; anh bắt tay ngay vào công việc. Có ngày anh vắt được bảy tám chai sữa! Do đó, việc thừa sữa uống là rất bình thường. Nhưng chưa dừng lại ở đây, anh cố công “thử làm bơ và pho mát”. Thất bại là mẹ của thành công. Sau vài lần bị hỏng, anh đã được như ý. Giờ đây, bữa ăn của anh vừa dồi dào nguồn thực phẩm, vừa ngon, vừa có nguồn giá trị dinh dưỡng cao. Thế nên, anh thốt lên bằng niềm tự hào mãnh liệt: “Các bạn thử nghĩ, một mình trên một hòn đảo hoang vắng mà bữa sáng có sữa tươi, bxa ăn thường ngày có bánh mì, bánh bột gạo tẻ, thịt dê, trứng rùa, bơ và pho mát, tráng miệng thì có các thứ hoa quả, nhất là nho tươi, nho khô, thiết tưởng cũng thịnh soạn, không kém ở những khách sạn bình thường tại các thành phố lớn”.

Mặt khác, chúng ta thấy Rô-bin-xơn là một chàng trai có lòng yêu đời tha thiết. Phải là một con người ham sống mới tồn tại được ở một nơi cách biệt hoàn toàn với thế giới con người như thế. Một thân, một mình giữa nơi hoang đáo, anh vẫn muốn sống đàng hoàng, sống cho ra sống, sống một cách mạnh mẽ, đẹp đẽ, dũng cảm, sáng tạo, vượt lên trên mọi hiểm nguy, thiếu thốn. Như vậy, quan niệm “sống” của anh không chỉ có ý nghĩa về mặt sinh học mà còn có ý nghĩa sâu xa về mặt triết học (phần nhiều nghiêng về mặt triết học). Ngày lại ngày, anh lạc quan “chu du trong địa hạt của mình giống như một người đi dạo phố ở thời hiện đại”. Dù không có ai nhìn ngắm (ngoại trừ anh) nhưng anh vẫn cứ “diện” theo sở thích của mình. Anh mặc một bộ quần áo bằng da rất kì lạ, kì lạ đến nỗi giá có người nào trông thây “nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!”. Cái áo chẽn bằng da dê, “tà áo chấm ngang đầu gối”. Quần thì ngắn nhưng “rộng thùng thình, may bằng tấm da lông một con dê xồm, lông dê dài lê thê, buông thõng xuống đên gần mắt cá, thành ra quần đùi mà cũng không khác quần dài”. Còn cái mũ cũng được làm bằng da dê “cao lêu đêu trông thật không ra cái hình thù gì”. Đã vậy, thắt lưng cũng làm bằng da lông. Riêng cái tư thế của anh chẳng khác nào một nhân vật trong truyện xưa đang phòng thủ: “Một cái cưa và một cái búa ở hai bên hông. Một sợi dây da vòng qua cổ sang phía tay trái, đeo lủng lẳng hai cái túi hình dáng lạ lùng, một cái túi đựng thuốc súng, một túi đựng đạn ghém. Sau lưng cõng một cái gùi, vai mang súng và trên đầu là cái dù xoè ra, bao che tất cả thân mình”. Bởi trang phục như vậy nên khuôn mặt của anh “rám nắng, đen sạm lại”, râu “đâm ra như cái chổi xể”, trên mép lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ Nhĩ Kì “vừa dài vừa rậm khác thường”. Rõ ràng, cách trang phục càng “tô đậm thêm nét cổ quái” vào diện mạo của anh - đúng như anh tự nhận xét là lệ bộ kì dị ấy đã khiến con chó người bạn thân của anh tỏ vẻ “kinh ngạc và khiếp sợ. Nó nghi nghi hoặc hoặc, chạy nép vào một góc nhà đứng nhìn ra, có ý dò xem cái con vật quái dị kia là bạn hay là thù”. Ấy vậy mà anh không hề cảm thấy đau khổ, tủi thân. Trái lại, anh kế cho chúng ta nghe bức chân dung tự họa của mình bằng giọng điệu vui tươi, pha lẫn những tiếng cười. Chẳng những thế, anh còn tự nhận mình là một vị “chúa đảo”. Có thể khẳng định rằng, giữa nơi hoang vu, vắng bóng dáng thân thương của con người, chất hoang dã đã nổi dậy lấn chiếm con người, hoang dã hóa con người nhưng chàng trai bất hạnh Rô-bin-xơn đã giành được chiến thắng, chiến thắng một cách vinh quang, vĩ đại, một chiến thắng mà đến 300 năm sau, trên hành tinh này chưa có người thứ hai đạt được.

Tóm lại, Rô-bin-xơn là một chàng trai có ý chí, nghị lực phi thường và lòng yêu đời mãnh liệt, mãnh liệt ngay cả trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Chính những phẩm chất tốt đẹp của chàng đã khơi dậy trong tâm hồn thơ ngây, trong sáng của em một tình yêu, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống hiện tại; một ý chí sắt đá, một nghị lực thép trong học tập và rèn luyện đạo đức để mai này em không chỉ giúp ích được cho bản thân mình mà còn cho xã hội yêu thương.

Trong câu chuyện "Sơn Tinh, Thủy Tinh", nhân vật Sơn Tinh để lại trong em ấn tượng sâu sắc. Sơn Tinh sống ở núi Tản Viên, có tài năng rất kì lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây thì liền mọc lên từng dãy núi đồi. Chàng thật tài giỏi, đã nhanh chóng tìm được lễ vật quý báu mà nhà vua chọn làm sính lễ. Chàng đã chiến đấu kiên cường, bất khuất với Thủy Tinh có tính hung hăng. Dù Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, dâng nước ngập lên đến thành Phong Châu thì Sơn Tinh cũng không hề nao núng mà kiên trì bốc núi, dời đồi suốt mấy tháng trời để ngăn dòng nước lũ. Sơn Tinh đã cứu nhân nhân ta thoát khỏi bão lũ, em rất khâm phục. Em mong Sơn Tinh luôn vững vàng để người dân không rơi và cảnh mưa gió, lũ lụt hằng năm. 
 

1 tháng 10 2021

ủa, dễ mà chị, em biết tả

đoạn văn kể về 2 nhân vaạt cổ tích thì chị tả truyện cổ tích: đẽo cày giữa đường, còn cái truyền thuyết gì mà aayys ấy em chỉ biết truyền thuyết về hồ ly tinh thui, cái còn lại em xin chuồn ạ

7 tháng 2 2021

Bạn​ tham khảo

Trong văn bản "Bài học đường đời đầu tiên" nhân vật Dế Mèn đã để lại cho em nhiều ấn tượng nhất.Đó là ngoại hình của Dế Mèn nhưng bên cạnh đó, Dế Mèn cũng đồng thời cho thấy sự chưa hoàn thiện về tính cách, nhận thức và hành động của tuổi mới lớn. Đó là tính kiêu căng, tự phụ về vẻ bề ngoài và sức mạnh của mình, xem thường người khác và hay chọc ghẹo mọi người. Và điều khiến mọi người không hài lòng về Dế Mèn nhất đó là đã gây ra cái chết cho Dế Choắt, đó là điều không thể tha thứ. Nhưng đến cuối văn bản, Dế Mèn đã phần nào lấy lại được cảm tình của người đọc vì ăn năn trước tội lỗi của mình. Tóm lại, con người Dế Mèn vừa có nét đẹp, vừa có nét chưa đẹp, để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

7 tháng 2 2021

Tham khảo:

Nguồn: Hoidap247

Truyện ngắn "Bài học về đường đời đầu tiên" của tác giả Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc một nhât vật Dế Mèn với một ngoài hình hết sức thu hút nhưng lại có những tính cách ngỗ ngược. Ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đã đi vào đặc tả ngoại hình của Dế Mèn "Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm”, “chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng”. Chỉ vài dòng ấy thôi đã cho người đọc thấy một ngoại hình hết sức cường tráng và khỏe mạnh của chú. Đó có lẽ là một ngoại hình mà rất nhiều đấng nam nhi mơ ước. Hơn thế nữa, nhà văn còn sử dụng hàng loạt những tính từ để miêu tả tính cách của Dế Mèn "tự tin, yêu đời và luôn tự hào về bản thân mình, luôn hãnh diện với bà con hàng xóm vì vẻ ngoại hình và sức mạnh của mình". Phải công nhận rằng, tự tin là tốt nhưng tị tin khác với tị tin thái quá. Và Dế Mèn là một chú Dế như vậy. Chính bởi bản tính ấy mà đã khiến Dế Choắt bị cướp đi sinh mạng. Và cũng bởi chính tính cách ấy mà Dế Mèn một bài học quý giá cho bản thân mình. Qua nhân vật này, chúng ta cũng đã học hỏi được rất nhiều điều. Đó là phải ăn uống điều độ và tập thể dục thường xuyên để có một cơ thể khỏe mạnh. Đặc biệt hơn, đó là không được hống hách, ngạo mạn và đừng bao giờ coi thường người khác.

3 tháng 9 2017
1. Mở bài:

Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam trước năm 1945, Nguyên Hồng đã được bạn đọc yêu quí. Bởi vì từ những tác phẩm đầu tay, nhà văn đã hướng ngòi bút về những người cùng khổ gần gũi mà ông rất mực yêu thương. Sáng tác năm 1938, “Những ngày thơ ấu” là cuốn hồi kí ghi lại những rung động cực điểm của chính tuổi thơ tác giả. Nhân vật bé Hồng trong tác phẩm, đặc biệt là qua chương IV “Trong lòng mẹ” để lại cho người đọc bao ấn tượng sâu sắc.

2. Thân bài:
* Khái quát ( Dẫn dắt vào bài ):

Là nhân vật chính, nhân vật tự truyện, bé Hồng hiện lên qua tác phẩm như là sự phát ngôn và hóa thân của nhà văn Nguyên Hồng. Ở chương IV “Trong lòng mẹ”, Nguyên Hồng nhớ lại một quãng đời cay đắng thời thơ ấu của mình, trong đó có cảnh ngộ đáng thương của một đứa trẻ xa mẹ, có tình yêu vô bờ đối với mẹ và niềm khao khát cháy bỏng được sống trong tình mẹ.

a. Trước hết, nhần vật bé Hồng trong đoạn trích mang đến cho người đọc cảm nhận về một cậu bé với một tuổi thơ cay đắng, bất hạnh, thiệt thòi:

- Sinh ra từ một cuộc hôn nhân không có tình yêu, cái thiệt thòi đầu tiên là cậu phải phải sớm chứng kiến sự giả dối, lạnh lẽo của một gia đình không hạnh phúc; chứng kiến cuộc sống âm thầm, vô vị của người cha nghiện ngập. Bố chết, Hồng trở thành đứa trẻ mồ côi. Mẹ vì cùng túng mà bỏ đi tha hương cầu thực. Hồng trở thành đứa trẻ bơ vơ. Hơn thế, cậu còn bị “đánh cắp” tuổi thơ khi luôn phải cảnh giác, thức nhọn những giác quan để chống lại sự xúc xỉa của bà cô độc ác đối với người mẹ đáng thương; luôn phải gồng mình để tồn tại trong một gia đình mà cái lễ giáo phong kiến, đồng tiền đã làm khô héo tình máu mủ. Nỗi đau của bé Hồng được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể qua cuộc trò chuyện với bà cô. Mặc dù bà ta đã cố tỏ ra tử tế, vờ quan tâm hỏi han nhưng qua lời lẽ, cử chỉ “rất kịch” đã thể hiện rõ sự giả dối, độc ác, sự châm chọc, nhục mạ đối với người mẹ đáng thương của Hồng, nhằm cố tình “gieo rắc” vào đầu óc cậu, để cậu “hoài nghi, khinh miệt và ruồng rẫy mẹ”. Quả nhiên, điều ấy đã khiến cậu bé vô cùng đau đớn. Nhận ra tâm địa của bà cô, cậu cố gắng kìm nén cảm xúc của bản thân, nhưng trước những câu hỏi, lời nói như châm chích, như dao đâm, như xát muối,lòng cậu như se thắt lại, vừa thương mẹ vừa thương thân. Nỗi xúc động càng tích tụ càng trào dâng và cuối cùng vỡ òa thành những giọt nước mắt: “khóe mắt cay cay”, rồi sau đó “nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép, rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ” và xót xa, cay đắng mà “cười dài trong tiếng khóc”. Tất cả đã cho thấy cái nỗi đau vượt quá sức chịu đựng của một cậu bé, nỗi đau của một tâm hồn trẻ thơ cô đơn, lạc lõng, bị hành hạ bởi cái thói xấu của người thân, thiếu tình thương, phải trải qua một tuổi thơ đầy tủi nhục, đắng cay.

- Thể hiện chân thực những đau khổ mà cậu bé Hồng phải trải qua, tác phẩm tự truyện của Nguyên Hồng đã cất tiếng nói đấu tranh bênh vực trẻ thơ, làm giá trị nhân đạo trong sáng tác của nhà văn của những con người cùng khổ có giá trị đặc biệt độc đáo.

- Chịu đựng bao thiệt thòi, giày vò của cuộc đời, liệu bé Hồng có vì thế mà cằn cỗi méo mó? Câu trả lời đã được thể hiện chân thực trong tình huống bé Hồng xa mẹ và trong lòng mẹ.

b. Nhân vật bé Hồng còn để lại ấn tượng trong lòng người đọc về một cậu bé có tình yêu thương mẹ tha thiết:

- Yêu thương mẹ tha thiết, bé Hồng mang niềm khát khao mãnh liệt được sống gần mẹ, được hưởng trọn tình cảm của mẹ. Tình yêu thương đó trong xa cách đã trở thành nỗi nhớ da diết. Vì thế, cậu đã toan trả lời “có” ngày sau khi bà cô hỏi có muốn vào Thanh Hóa thăm mẹ không? Rồi nhận ra ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười “rất kịch” của bà cô, cậu đã cứng cỏi bảo vệ tình cảm của mình. “Không đời nào tình yêu thương và lòng kính trọng mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Bé Hồng tin tưởng vào người mẹ của mình nên đã cười đáp lại bà cô: “Không, cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”. Khi bà cô đưa ra hai tiếng “em bé” để lặng nhục mẹ bé Hồng, thì cậu có một cảm giác đau đớn nhưng không phải đau đớn vì mẹ mình chưa đoạn tang chồng mà đã có chửa với người khác, mà đau đớn chỉ vì thương mẹ, chỉ giận là tại sao mẹ phải trốn tránh: “ Tôi thương mẹ tôi và căm tức mẹ tôi sao lại sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi để sinh nở một cách giấu giếm”. Như thế, bé Hồng đã hoàn toàn cảm thông với mẹ. Mặc dù còn rất nhỏ, bé Hồng đã không chịu ảnh hưởng của đạo đức phong kiến. Đó là do có một tình cảm tự nhiên, mạnh mẽ đối với người mẹ mà cậu vô vàn yêu thương, kính trọng.

- Ngay từ tuổi thơ, bằng những trải nghiệm cay đắng của bản thân, Nguyên Hồng đã thấm thía sự vô lí bất công và lên án những bất công đó của xã hội: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Câu văn với phép so sánh, bằng những hình ảnh cụ thể, nhịp văn gấp gáp dồn dập đã thể hiện sự phản kháng quyết liệt và cũng rất hồn nhiên trẻ con của bé Hồng. Sự căm ghét dữ dội những cổ tục ấy chính là biểu hiện đầy đủ của tình yêu thương dạt dào mà bé Hồng dành cho mẹ mình.

- Có thể nói, trong cảnh ngộ riêng của mình, tình yêu thương của bé Hồng với mẹ thể hiện trong đoạn trích là một tình cảm vừa thiêng liêng vừa đặc biệt. Bởi tình cảm ấy luôn bị đặt trong thử thách của cảnh ngộ éo le. Mặc khác, tình cảm của em với mẹ rất giản dị, chân thành, không mong được đền đáp. Tình cảm đó vô cùng trong trẻo, thuần khiết, sâu sắc, bền chặt, mang đúng nghĩa của tình mẫu tử.

c. Yêu thương mẹ, bé Hồng khao khát được gặp mẹ và sống trong lòng mẹ.

- Tình cảm của bé Hồng dành cho mẹ không chỉ thể hiện ở tình thương, nỗi nhớ mà còn được thể hiện cảm động ở những rung động, sung sướng đến cực điểm khi được nằm trong lòng người mẹ kính yêu mà cậu mong chờ đến mỏi mắt.

- Buổi chiều hôm ấy tan trường, thoáng thấy bòng người ngồi trên xe kéo giống mẹ, cậu đã chạy theo, gọi bối rối: “Mợ ơi...Mợ ơi...Mợ ơi”. Tiếng gọi bật ra từ tình thương nhớ mẹ bao ngày dồn nén là tiếng thổn thức của trái tim con trẻ khao khát được yêu thương. Tiếng gọi bật ra như một phản xạ tất yếu từ trái tim mà lí trí không thể cưỡng lại được, chứng tỏ hình ảnh của mẹ luôn thường trực trong trái tim cậu bé. Nếu giả sử đó là một sự nhầm lẫn thì “khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa xa mạc”. Nỗi khắc khoải mong mẹ đến cháy ruột của chú bé đã được thể hiện thật thấm thía, xúc động bằng hình ảnh so sánh đặc sắc này. Lời văn ấy cũng đã minh chứng cho một phong cách rất Nguyên Hồng. Những câu văn cuồn cuộn từ một trái tim vạm vỡ yêu thương, tự nó lấp lánh ảnh hình, hương sắc nguyên khai của phù sa, của nắng, và gió trời và cả cái mặn mòi của vùng đất cửa biển. Ta gặp không ít những lối hành văn đầy cảm xúc, thấm đẫm chất thơ như thế trong tự truyện của Nguyên Hồng.

- Nhà văn còn tái hiện những cử chỉ, hành động của bé Hồng thể hiệm niềm vui sướng khi gặp mẹ. Đuổi theo xe mẹ, bé Hồng “thở hồng hộc”, “trán đẫm mồ hồi”, và khi trèo lên xe thì “ríu cả chân lại”. Biết bao hồi hộp, sung sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy. Và khi được mẹ kéo tay và xoa đầu hỏi thì cậu “oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén trong suốt thời gian xa mẹ dài đằng đẵng lúc này bỗng vỡ oà.Tiếng khóc của cậu bé là tiếng khóc dỗi hờn và hạnh phúc, tức tưởi và mãn nguyện của xa cách, mong nhớ. Khi vắng mẹ thì bao dung, che chở cho mẹ như một bóng tùng che cho thảm cỏ nắng hạ, vậy mà khi gặp mẹ rồi, lại dỗi hờn như trẻ nhỏ. Thì em từ sâu thẳm là trẻ nhỏ mà! Cái năng lực dỗi hờn một người mẹ là nguồn sống thanh sạch thơ ngây mà cuộc đời đắng cay không thể đánh cắp của em bé. Nguyên Hồng dịu dàng và tin tưởng tấm lòng con trẻ biết bao! Hèn chi mà dù ông như không cố ý mà văn ông, trẻ thơ, người thiệt thòi rất thích, như người ta thích Gorki, Grim, Dicken vậy! Những nhà văn của phụ nữ và trẻ em!

- Và đặc biệt hơn, tất cả là niềm sung sướng vô biên, hạnh phúc đến cực điểm khi được đắm mình trong tình mẫu tử. Cậu gần như mê man đi, mở rộng hết tất cả các giác quan để cảm nhận được sự ấm áp, dịu dàng của lòng mẹ. Dường như, trong khoảnh khắc ấy, cậu như bồng bềnh trôi trong không gian, ánh sáng, màu sắc và hương thơm vừa lạ lẫm, vừa gần gũi. Cậu thấy mẹ vẫn đẹp như thuở nào “vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má”. Cậu cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc bên con của người mẹ. Bé Hồng cảm thấy ngây ngất sung sướng khi được sà vào lòng mẹ,cảm giác mà chú đã mất từ lâu: “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi,đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi,tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”.Bé Hồng còn cảm nhận thấm thía hơi thở vô cùng thân thiết: “Hơi quần áo của mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lại thường”. Kỉ niệm ngọt ngào làm chú sung sướng đến nghẹn ngào: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”. Lúc ấy, bé Hồng như quên đi tất cả những cay độc, buồn tủi “bên tai tôi ù đi, lời bà cô chìm xuống, tôi không mảy may nghĩ ngợi gì nữa...”. Nghĩa là hạnh phúc lớn lao, choáng ngập niềm sung sướng được ở bên mẹ tràn ngập trong bé Hồng, không một rắp tâm tanh bẩn nào xâm phạm được, nó cũng như một liều thuốc hữu hiệu đã nhanh chóng chữa lành mọi tổn thương trong em bấy lâu nay, đó chính là hạnh phúc lớn lao của tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả.

=> Qua ngòi bút Nguyên Hồng, nhân vật bé Hồng để lại ấn tượng xúc động trong lòng người đọc về hình ảnh một đứa trẻ mồ côi, bất hạnh nhưng vẫn tỏa sáng trái tim yêu thương sâu sắc. Từ đó thức tỉnh người đọc một chân lí: tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, cao cả nhất bởi nó vượt lên mọi cảnh ngộ, bất chấp sự dập vùi, nó có thể mang đến niềm hạnh phúc, niềm tin cho con người trong cảnh đời khốn khổ, trái ngang. * Nghệ thuật: Viết về nỗi đau và niềm hạnh phúc trẻ thơ, ngòi bút Nguyên Hồng thể hiện rõ chất trữ tình. Điều đó thể hiện ở tình huống truyện cảm động, ở tình cảnh đáng thương của bé Hồng, ở dòng cảm xúc phong phú của nhân vật với nhiều cung bậc: xót xa, tủi nhục, căm giận sâu sắc, quyết liệt, yêu thương nồng nàn, tha thiết. Đặc biệt là ở ngòi bút miêu tả, biểu cảm tinh tế, sinh động qua các từ ngữ thể hiện tâm trạng, các so sánh gợi cảm và lời văn giàu cảm xúc. Một áng văn mà như một áng thơ, đậm đà hơn cả một áng thơ.

3. Kết bài:

- Nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã cho thấy tinh thần nhân đạo trong ngòi bút của Nguyên Hồng. Nó thể hiện ở tấm lòng chan chứa yêu thương, thái độ nâng niu trân trọng của ông dành cho phụ nữ, nhi đồng qua việc diễn tả thấm thía nỗi cơ cực, tủi nhục cũng như sự thấu hiểu và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ.

- Bé Hồng là một nhân vật điển hình, có cá tính, được xây dựng bằng trải nghiệm và bằng ngòi bút tự khám phá rất tinh tế, được thể hiện rất thực mà rất thơ. Bé Hồng đã trở thành nhân vật trẻ em tiêu biểu cho văn học hiện thực – nhân đạo trước năm 1945
11 tháng 9 2017

chep tren mang a minh thua biet minh can mot bai khong chep mang nha

6 tháng 3 2017

Kiều Phương là cô bé hồn nhiên, nhí nhảnh và đam mê hội họa. Niềm đam mê này được tác giả diễn tả một cách cụ thể qua cách cô vẽ hằng ngày, cách cọ nhọ nồi để làm màu vẽ…Và khi bạn của bố phát hiện ra niềm đam mê này thì Kiều Phương càng tỏ rõ sự quyết tâm và phấn đấu mơ ước thành họa sĩ.

Mặc dù anh trai gọi là “mèo” vì cái tội lục lọi đồ linh tinh nhưng Kiều Phương vẫn “vui vẻ chấp nhận” và hồn nhiên khoe với bạn bè. Cách trò chuyện của Kiều Phương với anh trai cũng chưng tỏ Kiều Phương là cô bé nhí nhảnh, trong sang và vô cùng đáng yêu “Nó vênh mặt, mèo mà lại, em không phá là được”. Dù cho người anh trai khó chịu đến cỡ nào thì cô bé này vẫn không bao giờ tức giận, luôn giữ được sự hài hòa và tinh nghịch như thế. Tạ DUy Anh đã khéo léo khắc họa nên hình ảnh nhân vật đáng yêu, gây được thiện cảm tốt đối với người đọc.

Khâm phục hơn hết là tài năng hội họa của Kiều Phương. Điều này khiến cho bố mẹ vui mừng “Ôi con đã cho bố một bất ngờ quá lớn. Mẹ cũng không kìm được xúc động”. Người anh trai ghen ghét với tài năng của em nên càng ngày càng lạnh lùng và hay quát mắng em. Dù vậy nhưng tình cảm và thái độ của em gái dành cho anh vẫn không thay đổi, tin yêu và trân trọng hết mực.

Đặc biệt hơn hết là tình cảm, tấm lòng của Kiều Phương dành cho anh trai trong bức tranh đoạt giải. Cô bé chưa bao giờ ghét anh, mặc dù anh rất ghét cô, ghen tỵ với cô. Bức tranh là hình ảnh cậu con trai có đôi mắt rất sang, nhìn ra ngoài cửa sổ, toát lên một vẻ đẹp tuyệt vời. Có thể nói đây là chi tiết khiến người đọc xúc động về tình cảm an hem trong gia đình. Chính bức tranh này của Kiều Phương đã “thức tỉnh” được trái tim người anh, có cách nhìn khác về em, vừa hối hận vừa xấu hổ vừa biết ơn.

Kiều Phương không những là cô gái đáng yêu, hồn nhiên, tài năng mà còn có tấm lòng nhân hậu, bao dung khiến người khác phải khâm phục và ngưỡng mộ

6 tháng 3 2017

Có lẽ, khi đọc xong truyện ngắn “ Bức tranh của em giá tôi” của Tạ Duy Anh . Mỗi người chúng ta như tìm thấy một phần tuổi thơ của mình nơi đó, một chút nghịch ngợm, một chút hồn nhiên và cả những ước mơ nhỏ bé của mỗi người. Tạ Duy Anh đã khéo léo mang lại cho người đọc những cung bậc cảm xúc ấy qua nhân vật người em, một cô bé đáng yêu – Kiều Phương.

Khi nói đến Kiều Phương người ta nhớ ngay đến ngay một cô bé hồn nhiên nhí nhảnh và mặt lúc nào cũng lọ lem để người anh đặt cho biệt danh là – Mèo. “ Mèo rất lục lọi các đồ vật với một số thích thú đến khó chịu”. Cô bé luôn luôn làm đảo lộn mọi thứ trong nhà và luôn chơi một mình với những màu vẽ. Cô tự pha chế cho mình những màu sắc riêng để làm thuốc vẽ. Để tạo ra màu vẽ ấy Kiều Phương đã cạo nhọ nồi ở các xoong trong nhà. Chính sự hồn nhiên và đam mê sở thích của mình khiến cô bé trở nên nghịch ngợm hơn bao giờ hết. Chỉ cần là làm điều mình thích cũng khiến cho Kiều Phương “ Vui vẻ chạy đi làm những việc bố mẹ tôi phân công, vừa làm vừa hát có vẻ vui lắm”. Đó chính là những đam mê, sự hồn nhiên của một đứa trẻ, điều đó làm người đọc như quay lại thủa thiếu thời với những trò chơi đáng yêu mình đáng có.

Ở Kiều Phương người đọc còn tìm thấy niềm đam mê và năng khiếu hội họa vô cùng lớn của cô bé. Ngay từ cách cô tìm tòi pha chế những thứ màu cho mình cũng thấy sự đam mê của cô bé ra sao, mọi người không thể ngờ rằng một cô bé hay lục lọi trong nhà lại là một thiên tài nhí tương lai. Người phát hiện ra tài năng của Kiều Phương chính là chú Tiến Lê – họa sĩ nổi tiếng. Chính chú đã nhìn thấy những bức tranh tưởng chừng ngây ngô đơn giản của Mèo, nhưng nó lại vô cùng độc đáo và có hồn. Và nhờ chú Tiến Lê Kiều Phương đã tham gia cuộc thi vẽ và giành giải nhất. Bức tranh cô bé vẽ không ai khác đó chính là người anh của mình. Ghi nhớ lời chú Tiến Lê “ Cháu hãy vẽ những gì thân thuộc nhất với cháu” Kiều Phương đã chọn người anh mà cô yêu quý.

Bức Tranh như lột tả về tình cảm mà bấy lâu nay cô chưa hề nói với người anh trai của mình. Người xưa có câu “ Anh em như thể tay chân” và có lẽ nó càng đúng hơn trong trường hợp này của Kiều Phương. Trong mắt cô bé “ mặt chú bé tỏa ra một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự suy tư mà còn rất mơ mộng nữa”. Và cũng chính bức tranh ấy làm cho người anh nhận ra sự xấu hổ và ích kỉ của chính bản thân. Tấm lòng của người em như làm thức tỉnh, xóa tan mọi sự căm ghét mà bao lâu nay người anh dấu kín. Như người anh đã nghĩ “ Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”. Bấy lâu nay, mặc cho người anh cáu gắt xua đuổi nhưng có lẽ riêng với Kiều Phương anh trai chiếm phần rất lớn trong trái tim của mình. Bởi với cô bé anh- chính là người thân thuộc nhất với mình.

Với người anh của Kiều Phương chắc chắn rằng đó sẽ là một bài học sâu sắc nhất của người em mang lại cho mình, người anh đã rất khó chịu khi tài năng của Kiều Phương được phát hiện, luôn tỏ ra cáu gắt và khó chịu. Chính giây phút nhìn thấy bức tranh cậu bé đã không dấu sự xấu hổ của bản thân. Hóa ra bao lâu nay trong mắt cô em mình tuyệt vời đến thế. Và người đọc có thể tin rằng tình cảm của người anh chắc chắn sẽ khác đối với cô em bé bỏng của mình.

Đọc truyện ngắn “ Bức tranh của em gái tôi” người ta thấy được tình cảm trong sáng hồn nhiên và lòng nhân hậu của Kiểu Phương đã giúp cho người anh trai nhận ra được những ích kỉ của bản thân. Và chính câu chuyện ấy giúp ta thêm yêu, thêm quý và trân trọng những người anh, người chị trong gia đình.

tick cho mk nha!!!!!!

21 tháng 2 2018

Thánh Gióng là 1 vị anh hùng gan dạ và dũng cảm

21 tháng 2 2018

Chủ đề đánh giặc cứu nước, giành thắng lợi là chủ đề lớn, xuyên suốt trong dòng văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Trong đó, truyền thuyết Thánh Gióng là truyện dân gian thể hiện chủ đề này thật tiêu biểu và độc đáo. Truyện kể về ý thức và sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của dân tộc ta.

Hình tượng Thánh Gióng hiện lên với nhiều chi tiết nghệ thuật hay và để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Không những thế, truyện Thánh Gióng còn chứa đựng những chi tiết thật hoang đường, kỳ ảo. Ban đầu là mẹ của Thánh Gióng đi ra đồng, ướm thử chân mình vào một dấu chân rất to lớn, rồi sau đó về nhà bà mang thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Có ai lại mang thai tới mười hai tháng bao giờ? Điều này cũng chính là dấu hiệu báo cho ta có thể biết trước sự lạ lùng về chú bé. Quả đúng như vậy, chú bé được sinh ra khôi ngô, tuấn tú nhưng lạ thay, lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, đứng, nói, cười; đạt đâu thì nằm đó. Thật khác hẳn với những em bé bình thường. Chú bé này thật khác lạ khiến mọi người ai cũng cảm động và lo lắng cho chú. Nhưng khi có giặc Ân kéo đến xâm phạm bờ cõi Văn Lang, chú bé liền cất tiếng nói. Và tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc. Chú bé đã bật ra tiếng nói kịp thời, tiếng nói cất lên khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Tiếng rao của sứ giả ờ đây chính là lời hiệu triệu của Vua Hùng, là tiếng gọi của non sông đất nước khi Tổ Quốc lâm nguy. Chi tiết này làm em thật cảm động. Chú là người yêu quê hương đất nước tha thiết. Lòng yêu quê hương đất nước tha thiết đã giúp chú bé mới ba tuổi không nói, không cười lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt với ý chí quật cường có thể dời non, lấp biển. Thánh Gióng là một biểu tượng của muôn người gộp sức, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.

Chú bé Gióng đã có mặt kịp thời khi đất nước lâm nguy đã dẹp tan quân giặc. Ngựa phun ra lửa, roi sắt thần kì quật tan quân thù. Khi roi gãy thì nhổ tre đánh giặc. Thật sung sướng và tự hào biết bao khi Tổ Quốc ta có được một vị anh hùng như Thánh Gióng. Ta càng tự hào hơn khi Thánh Gióng đánh giặc xong không hề đợi vua ban thưởng mà một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Đây là một chi tiết hoang đường, kì ảo nhưng lại có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Sự ra đi kì lạ của Thánh Gióng rất phù hợp với ý nguyện nhân dân, nên nó có một sức sống trường tồn trong lòng nhân dân như một nét đẹp rực rỡ, trong sáng nhất của người anh hùng chống giặc. “Cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời” - thật là kì ảo, nhưng thật nhẹ nhàng, ung dung. Người con yêu nước ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh giặc cứu nước của mình, và đã ra đi một cách vô tư, thanh thản, không hề màng tới công danh địa vị cho riêng mình. Áo giáp sắt nhân dân làm cho để đánh giặc, khi đánh tan giặc rồi, trả lại cho dân để bay về trời. Điều đó cho em thấy ở hình tượng Thánh Gióng- trong con người của chàng chỉ có yêu nước và cứu nước - tất cả đều cao đẹp, trong sáng như gương, không một chút gợn nào. Phải chăng đó cũng chính là gương mặt của nhân dân ta được kết tinh trong người Thánh Gióng, ý chí phục vụ thật là vô tư , lớn lao và gương mẫu. Công lao to lớn ấy đã được nhà vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương, nhân dân muôn đời ghi nhớ. Thánh Gióng đánh giặc đâu phải là đơn phương độc mã. Thử hỏi rằng nếu không có cơm gạo... của dân làng, của nhà vua thì Thánh Gióng làm được những gì? Công lao của Thánh Gióng cũng có một phần của nhân dân lao động góp sức tạo lên. Thánh Gióng chính là sự tượng trưng cho sự lớn mạnh của đất nước ta, dân tộc ta.

Khép trang sách lại mà hình tượng Thánh Gióng vẫn đọng mãi trong tâm trí em - một hình tượng nghệ thuật dân gian tuyệt đẹp, tràn đầy tư tưởng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết thắng. Quả là không có hình tượng nào sánh kịp.



13 tháng 2 2016

Qua văn bản “Buổi học cuối cùng” hình ảnh người thầy giáo yêu nước Ha-men hiện lên thật nghiêm khắc mà mẫu mực – người thầy đã dành trọn bốn mươi năm tâm huyết cho nghề nhà giáo cao quí, bốn mươi năm tâm huyết để truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế hệ trẻ vùng An-dát biên giới xa xôi. Để rồi một ngày, thầy nhận được lệnh từ Béc-lin: “từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát, Lo-ren…” thế là các kỉ niệm đau đớn như ùa về với thầy đem theo sự hối hận tận cùng…Thầy nhớ như in những ngày thầy bắt học trò tưới vườn thay vì học hành, rồi những ngày thầy đã không ngại ngùng cho học trò nghỉ học khi mún đi câu cá hương. Nhưng tình yêu nước tha thiết đã trỗi dậy trong thầy vào buổi học tiếng Pháp cuối cùng: thầy mặc chiếc áo Gơ-đanh-gốt vốn chỉ dùng trong những hôm quan trọng, giọng nói thầy tha thiết hơn bao giờ hết và chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến vậy. Người thầy tội nghiệp như muốn truyền hết tri thức của mình và một lúc nhét hết nó vào đầu tụi học trò thơ ngây. Đồng hồ đã điểm mười hai giờ, thầy đứng trên bục, người thầy tái nhợt, bất lực ra hiệu cho tụi học trò: “kết thúc rồi…đi đi thôi!”. Tuy nhiên, trong điểm tột cùng của sự đau xót, thầy Ha-men đã có một hành động thật anh dũng, cao cả thể hiện tấm lòng yêu nước, yêu thiết tha tiếng mẹ đẻ đó là cầm phấn dằn hết sức, thầy cố viết thật to:

“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM

24 tháng 2 2016

Thầy Ha-men là hình ảnh tiêu biểu nhất cho nỗi đau của một người dân mất nước. Vẫn như mỗi lần, thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Không phải ngày lễ phát phần thưởng hoặc có thanh tra đến trường, nhưng thầy Ha-men vẫn ăn mặc rất trang trọng. Lớp học của trường làng, trước đây ồn ào, vui vẻ thế, nhưng hôm nay trở nên trang trọng khác thường. Ngoài lũ học trò quen thuộc, buổi học hôm nay còn có nhiều bà con dân làng đến dự, và ai nấy đều có vẻ buồn rầu.

Thầy Ha-men với giọng dịu dàng và trang trọng thông báo cho mọi người biết lệnh từ Béc-lin là từ nay, chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren... Thầy giảo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Phrăng vô cùng choáng váng khi nghe thầy nói. Tất nhiên, thầy Ha-men càng xót xa hơn khi nói lên sự thật mà bất cứ người con nào của vùng An-dát và Lo-ren cũng đều không mong muốn. Thầy đã gắn bó với ngôi trường này gần 40 năm, thầy đã phụng sự cho quê hương, hết lòng với Tổ quốc. Bà con đến với trường trong buổi học cuối cùng là để tạ ơn thầy Ha-men trước khi thầy rời xa mái trường thầy nhiều năm gắn bó. Thầy nói lên một cách chân thành, xúc động về sự coi nhẹ học hành, thầy cho rằng đó là một trong những nguyên nhân làm nước Pháp thất bại. Thầy cũng nhẹ nhàng phê phán Phrăng nhiều lần về việc em không chăm chỉ học hành. Bài học yêu nước từ việc chăm chỉ học hành đã được thầy nối lên một cách chân thành và giản dị.

Giờ Ngữ pháp, thầy phân tích và giảng giải để nâng cao lòng tự hào trong mỗi học sinh về một ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sángnhất.Thầy nhấn mạnh về nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn tiếng Pháp đối với mỗi công dân. Yêu tiếng Pháp chính là yêu nước Pháp, yêu nước Pháp đểtiến đến giải phóng đất nước ra khỏi cảnh bị đô hộ. Thầy nhấn mạnh vai trò của chừ viết trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và sức mạnh trong cuộc đấu tranh chống ách nô lệ: Một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù. Có thế nói buổi học cuối cùng là buổi học về lòng yêu nước mà trước hết là yêu tiếng Pháp, bảo vệ và giữ gìn tiếng Pháp. Bài học ấy thiêng liêng biết bao, nhât là đôi với thầy Ha-men, đối với Phrăng và các cô cậu khác, đối với cụ già, Hô-de và bao người dân vùng An-dát trong những năm tháng đau thương.

Hình ảnh người thầy trong buổi học cuối cùng thật trang trọng nhưng cũng thật cảm động. Những gì thầv nói ra đều xuất phát từ tận đáy lòng thầy, đó là lòng yêu nước nồng nàn, yêu quê hương tha thiết và yêu tiếng mẹ đẻ của mình. Thầy cố gắng truyền tải lòng yêu nước của mình đến với thế hộ trẻ, những người sẽ gánh trách nhiệm giải phóng quê hương, giữ gìn nhừng giá trị truyền thống cua dân tộc.

 

9 tháng 11 2017

Thạch sanh là một dũng sĩ xuất thân từ gia đình nghèo có cuộc sống và số phận đời gần gũi với nhân dân lao động. Chàng có tài năng xuất chúng và phẩm chất tốt đẹp được tiên trời phú để chiến đấu với lũ quái vật bảo vệ dân lành với lòng dũng cảm. Sự khoan dung trước tội ác của Lý Thông, nhân đạo và thể hiện sự hòa bình dân tộc trước tiếng vó ngựa của quân xâm lăng. Thạch Sanh là một con người tưởng tượng của nhân dân thể hiện niềm tin,mơ ước về đạo đức,công lí xã hội lí tưởng nhân đạo yêu hào bình của con người Việt Nam

11 tháng 10 2015

Ta có:

8926 - 4521 = (892)13 - 4521 = ........113 - .........521 = ...........1 - ............5 = ............6

Vì số có tận cùng là 6 sẽ chia hết cho 2 nên .............6 chia hết cho 2 hay 8926 - 4521 chia hết cho 2.

Cho mình 1 tick nha